Bình giảng bài thơ Tống biệt hành của Thâm Tâm.

Thâm Tâm đã sử dụng nhiều câu hỏi, câu trùng điệp. Câu thơ bảy chữ, nhưng cấu tạo ngắt nhịp tự do. Cả bài đều dùng vần bằng có thanh không dấu, xen với ít vần trắc, gieo vào lòng người một ý vị bâng khuâng, xốn xang.

       ''Tống biệt hành" của Thâm Tâm có một sức ám ảnh rất mạnh, ai đã đọc một lần chắc không bao giờ quên giọng thơ gân guốc, rắn rỏi của nó. Nhưng bên cạng cái rắn rỏi ây, bài thơ lại rất buồn, buồn mà không sụp xuống, cũng như dứt khoát, dửng dưng mà không vô tình. Bài thơ ngợi ca một người giã nhà ra đi theo chí lớn mà vẫn nặng lòng lưu luyến, bịn rịn với gia đình.

       Bài thơ viết theo lời người đưa tiễn và từ quan sát cảm nhận, suy nghĩ của người tiễn mà khắc hoạ nên hình tượng của người ra-đi.

       Bốn dòng đầu của bài thơ là cảm nhận xao xuyến ngỡ ngàng của người đưa tiễn trong phút tiễn đưa:

    "Đưa người, ta không đưa qua sông,

    Sao có tiếng sóng ở trong lòng ?

                Nắng chiều không thắm, không vàng vọt

          Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong” .

       Hai câu hỏi dạng "Không... sao có..." vừa có tác dụng phát hiện cái bất ngờ, vừa tô đậm tâm trạng và ấn tượng xảy ra trong cuộc tiễn đưa. Không phải cảm xúc dâng lên từ ngoại cảnh, hỏi ngoại cảnh làm gì có sông, và đã làm gì có hoàng hôn? Cũng không phải tình cảm xót xa khi tiễn đưa người bạn đi xa thông thường, khi tiễn bạn người ta thường khuyên bạn, chúc bạn, thương bạn, nơi góc bể chân trời, tự cảm thấy mình lẻ loi, cô độc, ở đây không có những tình cảm ấy, mà có những cảm xúc khác. "Tiếng sóng trong lòng" có thể là xao xuyến bồn chồn do một nguyên nhân nào đã biết trước, còn "đầy hoàng hôn trong mất trong" thì không phải là ánh mắt của người trượng phu lên đường. Người trượng phu xưa giã nhà theo chí lớn thường có điệu bộ khảng khái, tóc dựng xiên mũ, bước đi không ngoái lại như Kinh Kha xưa bên bờ sông Dịch trong Sử ki, hay như chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt trong "Chinh phụ ngâm"...

       Chính cái cảm xúc và phát hiện mới lạ ấy đã làm nẩy ra ý thơ trong đoạn tiếp theo, như một lời giải thích:

        "Đưa người, ta chỉ đưa người ấy.

         Một giã gia đình, một dửng dưng

              Li khách! Li khách! Con đường nhỏ,

          Chí nhớn chưa về, bàn tay không

    Thì không bao giờ nói trở lại.

    Ba năm mẹ già cũng đừng mong".

       Đoạn thơ như nói lên niềm thất vọng của người tiễn: Không, ta không tiễn con người mắt đầy hoàng hôn này: "Ta chỉ đưa người ấy". Chữ "ấy” như muốn phân biệt với người này. Người ấy phải là con người kiên quyết, dửng dưng, đi theo chí lớn, theo bóng người trượng phu xưa, dám dấn thân "con đường nhỏ", chí nhớn chưa thành thì không nói chuyện trở lại "ba năm mẹ già cũng đừng mong!".

       Kí ức người tiễn liền nhớ lại tiền sử của ánh mắt hoàng hôn:

       "Ta biết người buồn chiều hôm trước:

       Bảy giờ mùa hạ sen nở nốt

       Một chị, hai chị cũng như sen

       Khuyên nốt em trai dòng lệ sót.

       Ta biết người buồn sáng hôm nay:

       Trời chưa mùa thu tươi lắm thay,

       Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc

       Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay...”

       Đây là một cuộc tiễn đưa khác, đầy bịn rịn và nước mắt thương tiếc trong gia đình. Tiễn đưa đầy tinh thần níu lại. Hai chị như sen cuối mùa hạ, khóc nốt dòng lệ sót, khóc đến giọt nước mắt cuối cùng. Nhà thơ không nói "hai chị", mà đếm "một chị, hai chị" như xét đến từng người. Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc như chưa hiểu việc gì đang xảy ra. Và ai là kẻ "Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay", anh hay em? Người ra đi hay người ở lại?

    Nhưng người ra đi đã dứt áo ra đi:

    Người đi ừ nhỉ, người đi thực!

       Câu hỏi nêu ra như một điều không chắc chắn. Nhưng sự thực thì đã ra đi. Câu "Người đi thực" như khẳng định một điều mà giây phút trước đó có thể chưa phải là sự thực. Người trượng phu trong người ra đi đã trỗi dậy với tư thế kiên quyết đứt tình như tráng sĩ xưa:

    "Mẹ thà coi như chiếc lá bay,

    Chị thà coi như là hạt bụi,

    Em thà coi như hơi rượu say”

       Mỗi chữ "thà" coi như một nhát dao sắc, chặt đứt tình cảm để ra đi. Có người nghĩ rằng ý nghĩ người ra đi như vậy có vẻ tàn nhẫn quá, nên muốn hiểu cho "tình cảm hơn", đã giải thích thành: "Xin mẹ hãy coi con như chiếc lá bay, xin chị coi em như hạt bụi, xin em coi anh như hơi rượu say". Mới xem tưởng hiểu như vậy có vẻ "nhân ái" hơn, nhưng không đúng. Bởi lẽ, muốn hiểu thế thì lời đó phải là lời của người ra đi, nhưng trong văn cảnh lại là ý nghĩ của người tiễn, con người muốn nhìn thấy một trượng phu! Hiểu như thế thì cần xem "em nhỏ ngây thơ" coi anh như “ hơi rượu say" một cách ngang tàng thật là vô lí, vì em đã biết gì đâu "hơi rượu say" mà cầu xin! Đây chỉ là ý nghĩ của người tiễn giải thích về tình cảm trượng phu đã trỗi dậy trong người ra đi. Một cuộc tiễn đưa đầy kịch tính; kịch tính trong tình cảm, trong mâu thuẫn giằng xé giữa chí lớn, tình riêng. Một cuộc tiễn đưa hàm chứa một cuộc tiễn đưa, hay nói cách khác, hai cuộc tiễn đưa dồn nén, thử thách trong mộc cuộc tiễn đưa. Nhưng cuối cùng chí lớn đã thắng. Người trượng phu hôm nay, con người được thức tỉnh bởi lí tưởng nhân đạo, cá tính, không còn có thể ra đi thanh thản, nhẹ nhàng như ngày xưa nữa! Li khách đã ra đi trong tình cảm luyến tiếc sâu xa.

       Nhà thơ sử dụng đầu đề "Tống biệt hành" rất cổ kính, có lẽ chỉ để nhân mạnh cái giống và cái khác với người xưa. Đầu đề này có tác dụng đánh dấu xu hướng phong cách hoá cổ kính của bài thơ. Với đầu đề này, người tiễn tự xưng là "ta", người đi được xưng là "li khách", những lời khảng khái cũng được nói lên một cách thích hợp. Hình như người ra đi muốn mượn cái khí thế, lời lẽ ngang tàng của trượng phu xưa để nâng đỡ chính mình. "Hành" vốn là một thể thơ thịnh hành vào thời Hán Nguỵ Lục Triều ở Trung Quốc, có đặc điểm là tự do, phóng khoáng, không gò bó, lời thơ gần với lời nói. Vận dụng thể "hành”, Thâm Tâm đã sử dụng nhiều câu hỏi, câu trùng điệp. Câu thơ bảy chữ, nhưng cấu tạo ngắt nhịp tự do. Cả bài đều dùng vần bằng có thanh không dấu, xen với ít vần "trắc", gieo vào lòng người một ý vị bâng khuâng, xốn xang.

    Gs. Trần Đình Sử

    Xemloigiai.com

     

    Văn mẫu 11

    Những bài văn phân tích, cảm nhận, dàn ý, bình giảng, bình luận hay nhất trong Văn mẫu lớp 11 gồm các bài văn thuộc dạng nghị luận xã hội và nghị luận văn học hay nhất trong tác phẩm văn học cùng các các vấn đề xã hội nhanh nhất, chính xác nhất

    Nghị luận xã hội lớp 11

    Tập làm văn lớp 11

    Nghị luận văn học lớp 11

    Nghị luận về một tư tưởng đạo lí

    Nghị luận về một hiện tượng đời sống

    Vào phủ chúa Trịnh - Lê Hữu Trác

    Tự tình - Hồ Xuân Hương

    Câu cá mùa thu - Nguyễn Khuyến

    Thương vợ - Trần Tế Xương

    Khóc Dương Khuê - Nguyễn Khuyến

    Vịnh khoa thi Hương

    Bài ca ngất ngưởng - Nguyễn Công Trứ

    Bài ca ngắn đi trên bãi cát - Cao Bá Quát

    Lẽ ghét thương - Nguyễn Đình Chiểu

    Chạy giặc - Nguyễn Đình Chiểu

    Bài ca phong cảnh Hương Sơn - Chu Mạnh Trinh

    Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - Nguyễn Đình Chiểu

    Chiếu cầu hiền (Cầu hiền chiếu) - Ngô Thì Nhậm

    Xin lập khoa luật - Nguyễn Trường Tộ

    Hai đứa trẻ - Thạch Lam

    Chữ người tử tù - Nguyễn Tuân

    Hạnh phúc của một tang gia - Vũ Trọng Phụng

    Chí Phèo - Nam Cao

    Cha con nghĩa nặng - Hồ Biểu Chánh

    Vi hành - Nguyễn Ái Quốc

    Vĩnh biệt cửu trùng đài - Vũ Như Tô

    Lưu biệt khi xuất dương - Phan Bội Châu

    Hầu Trời - Tản Đà

    Vội vàng - Xuân Diệu

    Tràng Giang - Huy Cận

    Đây thôn Vĩ Dạ - Hàn Mặc Tử

    Chiều tối - Hồ Chí Minh

    Từ ấy - Tố Hữu

    Lai Tân - Hồ Chí Minh

    Nhớ đồng - Tố Hữu

    Tương tư - Nguyễn Bính

    Tôi yêu em - A.X. Pu-skin

    Bài thơ số 28 - R. Ta-go

    Người trong bao - A.P. Sê-khốp

    Người cầm quyền khôi phục uy quyền - V.Huy-gô

    Về luân lí xã hội ở nước ta - Phan Châu Trinh

    Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác - Ăng-ghen

    Một thời đại trong thi ca - Hoài Thanh

    Đọc thêm: Trần Tế Xương (Tú Xương)

    Đọc thêm Số đỏ - Vũ Trọng Phụng

    Đời thừa - Nam Cao

    Rô-mê-ô và Giu-li-ét - Sếch - xpia

    Đọc thêm: Phan Bội Châu

    Thề non nước - Tản Đà

    Đây mùa thu tới - Xuân Diệu

    Thơ duyên - Xuân Diệu

    Tiếng hát đi đày - Tố Hữu

    Tâm tư trong tù - Tố Hữu

    Đám tang lão Gô - ri - ô - Ban-dắc

    Xem Thêm

    Lớp 11 | Các môn học Lớp 11 | Giải bài tập, đề kiểm tra, đề thi Lớp 11 chọn lọc

    Danh sách các môn học Lớp 11 được biên soạn theo sách giáo khoa mới của bộ giáo dục đào tạo. Kèm theo lời giải sách bài tập, sách giáo khoa, đề kiểm tra 15 phút, 45 phút (1 tiết), đề thi học kì 1 và học kì 2 năm học 2025 ngắn gọn, chi tiết dễ hiểu.

    Toán Học

    Vật Lý

    Hóa Học

    Ngữ Văn

    Sinh Học

    GDCD

    Tin Học

    Tiếng Anh

    Công Nghệ

    Lịch Sử & Địa Lý

    Tác giả & Tác phẩm