Phân tích hình tượng nhân vật Thúy Kiều trong đoạn Thúy Kiều báo ân báo oán

Nguyễn Du đã sáng tạo ra những lời thoại biến hóa để nói lên chuyện báo ân báo oán, ca ngợi sự thủy chung tình nghĩa, lên án bọn bạc ác tinh ma. Cảnh Thúy Kiều báo ân báo oán là một tình tiết rất đậm làm nổi bật tinh thần nhân đạo của Truyện Kiều.

    Hình tượng nhân vật Thúy Kiều

    Thúy Kiều báo ân – thể hiện lòng biết ơn và nghĩa tình sâu nặng:

    Qua những lời nói của Kiều, có thể thấy nàng rất trọng tấm lòng và sự giúp đỡ mà Thúc Sinh dành cho nàng trong cơn hoạn nạn:

    Nàng rằng: nghĩa nặng nghìn non,

    Lâm Tri người cũ chàng còn nhớ không?

    Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng,

    Tại ai há dám phụ lòng cố nhân ?

    Thúc Sinh đưa Kiều ra khỏi lầu xanh, cứu nàng thoát khỏi cảnh đời ô nhục. Cùng với chàng Thúc, Kiều có những tháng ngày êm ấm trong cuộc sống gia đình mà nàng gọi đó là nghĩa nặng nghìn non. Kiều nói về nghĩa, về chữ tòng, đề cao đạo lí thủy chung. Thúc Sinh là người cũ, là cố nhân mà Kiều há dám phụ. Nàng khẳng định tình nghĩa của Thúc Sinh đối với mình khi xưa là vô cùng to lớn, sâu nặng: nghĩa nặng nghìn non... Kiều đã dùng một số từ ngữ như nghĩa, nghìn non, Sâm Thương, chữ tòng, người cũ, cố nhân cùng với giọng điệu ôn tồn, biểu lộ một tấm lòng trân trọng, biết ơn một người đàn ông đã từng yêu thương mình, cứu vớt mình. Trái tim của Kiều rất nhân hậu, cách ứng xử của nàng với Thúc Sinh là giàu ân nghĩa, thủy chung.

    Cái lễ vật chất mà Kiều báo ân cho Thúc Sinh cũng thật hậu, khẳng định cái nghĩa đối với cố nhân trong những năm tháng ở Lâm Tri là vô cùng sâu nặng:

    Gấm trăm cuốn bạc nghìn cân,

    Vì gắn bó với Thúc Sinh mà đời Kiều thêm một lần khổ với thân phận làm lẽ đau đớn hơn một kẻ tôi đòi. Tuy nhiên, Kiều hiểu nỗi đau khổ của nàng không phải do Thúc Sinh gây ra mà thủ phạm là Hoạn Thư. Nàng cho rằng dù có gấm trăm cuốn, bạc nghìn cân cũng chưa xứng với ơn nghĩa của Thúc Sinh.

    Thúy Kiều báo oán kiên quyết nhưng vẫn khoan dung, độ lượng:

    Bao năm tháng đã trôi qua nhưng lòng Kiều vẫn chưa nguôi. Vì thế giờ đã đổi thay: kẻ chịu đầy đọa giờ đã là quan tòa ngồi trong trướng giữa cảnh gươm lớn giáo dài:

    Vợ chàng quỷ quái tinh ma,

    Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau.

    Kiến bò miệng chén chưa lâu,

    Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa.

    Trong khi nói với Thúc Sinh, Kiều đã nói về Hoạn Thư, chứng tỏ vết thương lòng mà vị tiểu thư kia gây ra cho Kiều đang còn quá xót xa. Kiều đã có hai cách nói khác nhau: nói về ân thì trang trọng, ôn tồn; nói về oán thì nôm na, chì chiết. Nguyễn Du đã tạo ra hai giọng điệu, hai thứ ngôn ngữ trong một lượt lời của Thúy Kiều đã cho thấy ông rất tinh tế, sâu sắc khi thể hiện tâm lí nhân vật.

    Từ lần bị đánh ghen đêm ấy, đến nay đã trải qua bao năm tháng. Gặp lại Hoạn Thư lần này, trong tư thế của người chiến thắng ra tay báo oán, Kiều đã chào thưa bằng những lời mát mẻ:

    Thoắt trông nàng đã çhào thưa:

    “Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây!

    Đàn bà dễ có mấy tay,

    Đời xưa mấy mặt đời này mấy gan!

    Dễ dàng là thói hồng nhan,

    Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều”.

    Hành động, lời nói của Kiều đều biểu thị thái độ mỉa mai đối với Hoạn Thư. Nàng vẫn dùng cách xưng hô như hồi còn làm hoa nô cho nhà họ Hoạn, vẫn một điều chào thưa, hai điều tiểu thư. Cách xưng hô này trong hoàn cảnh giữa Kiều và Hoạn Thư đã có sự thay đổi là một cách mỉa mai, quất mạnh vào danh gia họ Hoạn. Trong lời nói của Kiều có cá giọng đay nghiến khi câu thơ như dằn ra từng tiếng, khi từ ngữ được lặp lại, nhấn mạnh: dễ có, dễ dàng, mấy tay, mấy mặt, mấy gan, đời xưa, đời nay, càng cay nghiệt, càng oan trái,... Cách nói này hoàn toàn phù hợp với Hoạn Thư, phù hợp với con ngươi bề ngoài thơn thớt nói cười mà trong nham hiểm giết người không dao. Giọng điệu mỉa mai, đay nghiến của Kiều cho thấy nàng quyết trừng trị Hoạn Thư theo đúng quan niệm mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa. Từ thân phận con người bị áp bức, đau khổ, Thúy Kiều đã trở thành vị quan tòa cầm cán cân công lí. Đoạn Thúy Kiều báo ân báo oán là sự phản ánh khát vọng ước mơ công lí chính nghĩa của thời đại Nguyễn Du.

    Nhưng sau khi nghe những lời gỡ tội cua Hoạn Thư vừa có lí vừa có tình thì Thúy Kiều đã tha riêng cho Hoạn Thư:

    Khen cho: “Thật đã nên rằng,

    Khôn ngoan đến mực nói năng phải lời.

    Tha ra thì cũng may đời.

    Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen.

    Đã lòng tri quá thì nên:

    Truyền quân lệnh xuống trướng tiền tha ngay.

    Sự việc diễn ra quá bất ngờ, ngoài sức tưởng tượng của nhiều người. Vốn là người phụ nữ trung hậu, đã từng nếm trải bao cay đắng và ngang trái trong cuộc đời, vả lại Kiều cũng tự biết mình đã xâm phạm đến hạnh phúc của người khác. Tha tội cho Hoạn Thư, Thúy Kiều đã tỏ ra vô cùng cao thượng.

    Nguyễn Du đã sáng tạo ra những lời thoại biến hóa để nói lên chuyện báo ân báo oán, ca ngợi sự thủy chung tình nghĩa, lên án bọn bạc ác tinh ma. Cảnh Thúy Kiều báo ân báo oán là một tình tiết rất đậm làm nổi bật tinh thần nhân đạo của Truyện Kiều.

    Xemloigiai.com

    Văn mẫu lớp 9

    Những bài văn phân tích, cảm nhận, dàn ý, bình giảng, bình luận hay nhất trong Văn mẫu lớp 9 gồm các bài văn thuộc dạng nghị luận xã hội, nghị luận văn học, biểu cảm, thuyết minh, tự sự hay nhất trong tác phẩm văn học cùng các các vấn đề xã hội nhanh nhất, chính xác nhất

    Nghị luận văn học

    Các bài tập làm văn

    Nghị luận xã hội

    Phong cách Hồ Chí Minh - Lê Anh Trà

    Đấu tranh cho một thế giới hòa bình - Ga-bri-en Gác-xi-a Mác-két

    Tuyên bố thế giới về sự sống còn, quyền được bảo vệ và phát triển của trẻ em

    Chuyện người con gái Nam Xương - Nguyễn Dữ

    Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh - Phạm Đình Hổ

    Hoàng Lê nhất thống chí

    Truyện Kiều - Nguyễn Du

    Chị em Thúy Kiều - Nguyễn Du

    Cảnh ngày xuân - Nguyễn Du

    Kiều ở lầu Ngưng Bích - Nguyễn Du

    Mã Giám Sinh mua Kiều - Nguyễn Du

    Thúy Kiều báo ân báo oán - Nguyễn Du

    Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga - Nguyễn Đình Chiểu

    Đồng chí - Chính Hữu

    Bài thơ về tiểu đội xe không kính - Phạm Tiến Duật

    Đoàn thuyền đánh cá - Huy Cận

    Bếp lửa - Bằng Việt

    Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ - Nguyễn Khoa Điềm

    Ánh trăng - Nguyễn Duy

    Làng - Kim Lân

    Lặng lẽ Sa Pa - Nguyễn Thành Long

    Chiếc lược ngà

    Cố hương - Lỗ Tấn

    Những đứa trẻ - Mác-xim Go-rơ-ki

    Bàn về đọc sách - Chu Quang Tiềm

    Tiếng nói của văn nghệ - Nguyễn Đình Thi

    Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới - Vũ Khoan

    Chó sói và cừu trong thơ ngụ ngôn của La Phông-ten - Hi-pô-lít Ten

    Con cò - Chế Lan Viên

    Mùa xuân nho nhỏ - Thanh Hải

    Viếng lăng Bác - Viễn Phương

    Sang thu - Hữu Thỉnh

    Nói với con - Y Phương

    Mây và sóng - Ra-bin-đra-nát Ta-go

    Bến quê (trích) - Nguyễn Minh Châu

    Những ngôi sao xa xôi - Lê Minh Khuê

    Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang - Đe-ni-ơn Đi-phô

    Bố của Xi-mông - Guy-đơ Mô-pa-xăng

    Con chó Bấc - Giắc Lân-đơn

    Bắc Sơn - Nguyễn Huy Tưởng

    Tôi và chúng ta - Lưu Quang Vũ

    Nghị luận về một tư tưởng đạo lí

    Nghị luận về một hiện tượng đời sống

    Xem Thêm

    Lớp 9 | Các môn học Lớp 9 | Giải bài tập, đề kiểm tra, đề thi Lớp 9 chọn lọc

    Danh sách các môn học Lớp 9 được biên soạn theo sách giáo khoa mới của bộ giáo dục đào tạo. Kèm theo lời giải sách bài tập, sách giáo khoa, đề kiểm tra 15 phút, 45 phút (1 tiết), đề thi học kì 1 và học kì 2 năm học 2024 ngắn gọn, chi tiết dễ hiểu.

    Toán Học

    Vật Lý

    Hóa Học

    Ngữ Văn

    Sinh Học

    GDCD

    Tin Học

    Tiếng Anh

    Công Nghệ

    Lịch Sử & Địa Lý

    Âm Nhạc & Mỹ Thuật