Phân tích bi kịch tinh thần của nhân vật Hộ trong truyện Đời thừa của Nam Cao
Truyện ngắn của Nam Cao viết về đề tài người trí thức nghèo trong xã hội cũ đã để lại nhiều ám ảnh trong lòng người đọc. Trăng sáng, Đời thừa, Mua nhà, Sống mòn,... là những tác phẩm độc đáo mang tính chất tự truyện của ông.
Nhân vật “tôi” trong mua nhà, đã tâm sự qua thư gửi bạn: “Tôi làm việc ghê gớm lắm. Tôi giết dần tôi đi để kiếm tiền...”. Và sau trận bão, cái nhà tre “như một người già khuỵu gối”, “tôi cố làm việc hơn trước nữa, tôi sẽ giết tôi nhanh hơn trước nữa”,... Nhà văn Hộ trong Đời thừa cũng vậy, anh đã trải qua bi kịch đầy nước mắt, giằng xé lương tâm. Qua nhân vật Hộ, tác giả phản ánh chân thực tình cảnh nghèo khổ, tủi nhục, bế tắc của người trí thức nghèo trong xã hội cũ. Tấn bi kịch tinh thần của Hộ cũng như của những nhà văn nghèo trước Cách mạng được Nam Cao thể hiện một cách sâu sắc, chân thực, cảm động, từ đó đặt ra nhiều vấn đề có ý nghĩa xã hội to lớn.
Hộ là một nhà văn nghèo có lương tâm và có tài. Khi chưa có vợ con “với cách viết thận trọng của hắn, hắn chỉ kiểm được vừa đủ để một mình hắn sống một cách eo hẹp, có thể nói là cực khổ”. Nhưng từ khi “đã ghép đời Từ vào cuộc đời của hắn”, với một bầy con thơ “nhiều đen, nhiều sài, quấy rức, khóc mếu suốt ngày đêm và quanh năm uống thuốc”, thì Hộ đã rơi vào tấn bi kịch ghê gớm, bị cái nợ áo cơm ghì sát đất! Hộ cứ luẩn quẩn mãi trong bao nỗi khổ tâm “thứ nhất con đói, thứ hai nợ đòi, thứ ba nhà dột” như dân gian đã nói.
Hộ vốn là một nhà văn rất có ý thức sâu sắc về sự sống. Anh muốn sống đẹp, muốn “nâng cao giá trị đời sống” của mình bằng một sự nghiệp văn chương có ích cho đời. Nhưng rồi năm tháng trôi qua, cuộc đời quá phũ phàng, “kết cục chẳng làm được cái gì”, mọi ước mơ tiêu tan, Hộ dần dần trở thành một kẻ ‘‘vô ích", sống một “đời thừa” cay đắng.
Hộ vốn là nhà văn có tài và tự tin, từng ôm ấp “một hoài bão lớn”, một mộng đẹp văn chương. Với Hộ “đói rét không có nghĩa lý gì”, hắn “khinh nhưng lo lắng tủn mủn về vật chất”. Hắn say mê lý tưởng, đầu hắn “chỉ lo vun trồng cho cái tài của hắn ngày một thêm nảy nở”. Với Hộ “nghệ thuật là tất cả”. Hộ khao khát vinh quang “băn khoăn nghĩ tới một tác phẩm nó sẽ làm mờ hết các tác phẩm khác cùng ra một thời”. Phải nói rằng cái khao khát ấy của Hộ là chính đáng, là ước mong chân chính của người có tài, có lương tâm, muốn khẳng định mình trong xã hội. Hộ không muốn sống tầm thường nhạt nhẽo. Khao khát của anh không phải là sự thèm khát hư danh và hám lợi của bọn tiểu nhân, phàm tục!
Lý tưởng sống vì nghệ thuật, “nghệ thuật là tất cả” của Hộ rất trong sáng và đẹp. Đâu phải là mơ hồ viển vông! Đâu phải là quan điểm “nghệ thuật vị nghệ thuật”! Mà đó là sự say mê lớn của một nhà văn muốn đem tài năng thi thố với đời. Sự nghiệp văn chương của Hộ luôn hướng tới cái Chân, Thiện, Mỹ, như đem hoa thơm trái ngọt để lại cho đời, mỗi trang văn cuốn sách đều tấm đẫm tinh thần nhân đạo. Anh đã từng tâm sự với bạn văn bút về một tác phẩm văn chương đích thực mà anh đang nung nấu, vươn tới sáng tạo. Tác phẩm ấy “thật giá trị, phải vượt lên bên trên tất cả các bờ cõi và giới hạn". Tác phẩm ấy “phải chứa đựng được một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình... Nó làm cho người gần người hơn”. Đó là những lời tâm huyết, rất sâu sắc và tiến bộ. Quan điểm nghệ thuật ấy là quan điểm nghệ thuật hướng tới con người, vì hạnh phúc của con người.
Hộ là một nhà văn vừa mẽ văn vừa tự hào về cái nghề cầm bút của mình. Mỗi lần đọc được đoạn văn hay, một câu văn hay, hắn “ngẫm nghĩ và để cho cái khoái cảm ngân ra trong lòng”. Với Hộ, văn chương là một món ăn tinh thần vô giá. Mỗi lần đọc được một đoạn văn hay, cảm được cái hay của văn chương “thì dẫu ăn một món ngon đến đâu cũng không thích bằng. Sướng lắm!”.
Hộ đã từng tâm sự với Từ: “Nghĩ cho kỹ, đời tôi không đáng khổ mà hóa khổ, chính tôi làm cái thân tôi khổ, tôi mê văn quá nên mới khổ” (..) “nhưng thử có người giàu bạc vạn vào thuận đổi lấy cái địa vị của tôi, chưa chắc tôi đã đổi”. Đó là một lời tự thú cảm động của những con người “đã mang cái nghiệp vào thân”. Sự “mê văn quá” của Hộ là một trong những nguyên nhân phát sinh tấn bi kịch cua người trí thức nghèo trong xã hội cũ.
Hộ có tài, có tâm, có lý tưởng đẹp, có hoài bão lớn, nhưng đâu dễ thực hiện được! Hắn phải gánh trên đôi vai gầy của mình cái gánh nặng vợ con, bao thì giờ bị ngốn vào “những bận rộn tẹp nhẹp, vô nghĩa lý”. Nợ nần triền miên: "tiền nhà... tiền giặt... tiền thuốc... tiền nước mắm...”. Nhiều lúc Hộ phải “sầm mặt lại” trước “những lo lắng liên miên về vật chất”, hắn mới thấm hiểu “giá trị của đồng tiền”, hắn mới thấm hiểu nỗi đau khổ của một người chồng “khi thấy vợ mình đói rách”. Nếu trước kia hắn “viết thận trọng”, chăm chút từng trang văn thì giờ đây “hắn phải cho in nhiều cuốn văn viết vội vàng... phải viết những bài báo để người ta đọc rồi quên ngay sau lúc đọc”. Hắn vô cùng xấu hổ mỗi lần đọc lại một cuốn sách, hay một đoạn văn ký tên mình, “hắn đỏ mặt lên, cau mày, nghiến răng, vò nát sách và mắng mình như một thằng khốn nạn”.
Vốn có tài và giàu lương tâm nghề nghiệp, nhưng trước cuộc sống vật chất, cơm áo ngặt nghèo, vợ con thúc bách ngày đêm, Hộ không còn được trau dồi nghệ thuật nữa, hắn phải viết “toàn những cái vô vị nhạt nhẽo, gợi những tình cảm rất nhẹ rất nông, diễn một vài ý rất thông thường quấy loãng trong một thứ văn bằng phẳng và quá ư dễ dãi”.
Với Hộ, nhà văn không thể làm theo, bắt chước người, mà phải sáng tạo, “biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có”. Nhìn lại những gì hắn đã viết ra, hắn “buồn lắm, buồn lắm" Hắn xót xa buồn tủi cảm thấy mình là “một người thừa”, tự dằn vặt mình lá “một kẻ bất lương”, là “đê tiện”. Khát vọng thì cao xa mà rút cuộc, Hộ “chẳng đem một chút mới lạ gì đến văn chương”. Hắn vùng vẫy trong đau đớn, tủi nhục, “điên người lên vì phải xoay tiền”. Bao mộng đẹp tiêu tan, bao dự định cuối cùng chỉ là tờ giấy trắng! Hắn vô cùng “chán ngán”, mang tâm trạng buồn thảm như “một kẻ phải đi đày”. Có lúc hắn thở dài ngao ngán: “Thôi thế là hết! Ta đã hỏng! Ta đã hỏng đứt rồi!”. Lòng Hộ “rũ buồn”. Còn có gì buồn hơn “còn có gì đau đớn hơn cho một kẻ vẫn khát khao làm một cái gì mà nâng cao giá trị đời sống của mình, mà kết cục chẳng làm được cái gì, chỉ những lo cơm áo mà đủ mệt?”. Đó là bi kịch của một nhà văn, một kẻ sĩ mang mộng đẹp, hoài bão lớn, cuối cùng rất tầm thường, toan tính tủn mủn, phải sống như “một kẻ vô ích, một người thừa”.
Nhưng bi kịch tinh thần của văn sĩ Hộ đây chỉ có thế! Anh ta là một người chồng tốt, một người cha giàu tình thương con, nên bi kịch thứ hai này không kém phần đau đớn. Đó là bi kịch của một trí thức coi tình thương là nguyên tắc sống cao nhất, hi sinh tất cả cho tình thương, nhưng lại cứ sống bê tha, tàn nhẫn, thô bạo, gây đau khổ cho vợ con, chà đạp lên nguyên tác tình thương đó của mình.
Từ là một cô gái lỡ làng. Hộ đã nhận Từ làm vợ, nhận làm bố cho đứa con thơ, lo việc ma chay cho mẹ Từ. Một tấm lòng, một tình thương gần như nghĩa hiệp. Hộ đã “cúi xuống nỗi đau khổ của Từ”. Nhưng rồi, gia cảnh ngày một thay đổi, “đứa con này chưa kịp lớn lên, đứa con khác đã vội ra”, có nhiều lúc “hắn còn điên lên vì con khóc”. Một đôi lần, hắn thoáng nghĩ bỏ mặc vợ con, để được rảnh rang viết, thoát khỏi tình trạng “đời thừa”. Nhưng vốn nhân hậu, anh không thể chấp nhận sự tàn nhẫn như thế! Anh không thể sống ác, sống tàn nhẫn, như ai đó đã nói? Với Hộ tình thương là trên hết, hắn sẵn sàng “hi sinh” hoài bão nghệ thuật để giữ lấy tình thương, dù đó là một sự “hi sinh" quá lớn đối với anh. Hắn tự bảo: “Ta đành phí đi một vài năm để kiếm tiền. Nhưng để vượt lên khỏi cảnh ngộ, hắn quyết “không thể bỏ lòng thương” bởi lẽ, như hắn quan niệm: “Kẻ mạnh chính là kẻ giúp đã kẻ khác trên đôi vai mình”
Sự đời, mọi đau khổ về bi kịch tinh thần đâu dễ gì một sớm một chiều mà có thể xua tan được? Để quên đi nỗi đau về sự tủi nhục, Hộ đã tìm đến rượu. Hắn ta đã chìm sâu vào vòng bi kịch, sau mỗi lần say. Say rượu, tâm tính Hộ thay đổi quá lớn thật đáng sợ. Có lúc, “hắn đã ngủ một nửa ngay từ khi còn ở dọc đường”. Có lúc hắn “đã đổ xuống như một khúc gỗ xuống bất cứ cái giường nào, ngủ say như chết”. “Có lúc hẳn lảo đảo bước vào nhà, mắt gườm gườm, đôi môi mím chặt...”. Có lần say rượu hắn đã đánh Từ, đòi “vật một nhát cho chết cả” mấy mẹ con Từ. Nhưng rồi khi tỉnh rượu hắn “bẽn lẽn” xin lỗi Từ “hôn hít các con như một người cha tốt”, tuyên bố chừa rượu, sau đó lại say, lại làm những trò vừa buồn cười, vừa đáng sợ như lần trước. Say rồi tỉnh tỉnh rồi say. Cái vòng luẩn quấn ấy, Hộ phải qua nhiều ngày tháng u uất, “âm thầm đau khổ". Hộ lâm vào bế tắc nặng nề, thậm chí có lần anh dốc sạch tiền nhuận bút vào quán rượu, say rượu, đánh đuổi vợ con ra khỏi nhà giữa đêm khuya. Hình ảnh Hộ, sau cơn say, tỉnh dậy “mắt nhớn nhác tìm Từ”, dịu dàng nắm lấy tay Từ, lòng hối hận “khóc nức nở” là hình ảnh cảm động nhất về tấn bi kịch của người trí thức nghèo trong xã hội cũ. Tiếng hát ru con của Từ phải chăng là để làm vơi đi ít nhiều nỗi đau đớn tinh thần của người chồng thương yêu đang trải qua tấn bi kịch nặng nề, u ám: "... Ai làm cho Nam Bắc phân kỳ - Cho hai hàng lệ đầm đìa tấm thân?”
Trước Cách mạng, thi sĩ Tản Đà đã có lần cảm khái: “Văn chương hạ giới rẻ như bèo...”. Sau này, nhà thơ Xuân Diệu lại viết: “Nỗi đời cay cực đang giơ vuốt - Cơm áo không đùa với khách thơ”. Với truyện ngắn Đời thừa, Nam Cao đã phản ánh một cách cảm động, đau xót bi kịch tinh thần của một người trí thức nghèo trong xã hội thực dân phong kiến. Tác giả đã lên án cái xã hội ngột ngạt bóp chết mọi mơ ước, tước đi cuộc sống chân chính của con người, đồng thời đã đầu độc tâm hồn con người và mối quan hệ vốn đẹp đẽ giữa người và người. Tấn bi kịch tinh thần của Hộ đã ghi lại cuộc đấu tranh tư tưởng của người trí thức trung thực, trong cảnh ngộ bế tắc, cố vươn lên giữ vững lẽ sống nhân đạo.
Đời thừa hay Sống mòn là chủ đề bao trùm nhiều sáng tác của Nam Cao trước Cách mạng. Hộ, Điền, Thứ... là hiện thân cho nỗi đau khổ, tủi nhục của người trí thức nghèo. Hãy tạo ra một môi trường sáng tác lành mạnh trong xã hội tốt đẹp để mọi nhà văn có thể đem tài năng sáng tạo, sống có ích cho đời. Phải thay đổi cái cuộc đời ngột ngạt để cứu lấy con người, cứu lấy sự sống. Đó chính là ý nghĩa tư tưởng tích cực của sáng tác có tầm vóc này mà chúng ta cảm nhận được! Đời thừa là tiếng kêu thương đầy lệ!
Xemloigiai.com
- Phân tích tấn bi kịch của người tri thức nghèo trong xã hội cũ qua nhân vật Hộ trong truyện ngắn Đời thừa của Nam Cao
- Đọc hiểu Đời thừa
- Soạn bài Đời thừa
- Phân tích nhân vật Từ trong truyện ngắn Đời thừa của Nam Cao
Soạn văn 11 chi tiết
Soạn văn lớp 11 đầy đủ tất cả bài, ngắn gọn nhất như là cuốn để học tốt Ngữ văn 11. Giúp học sinh soạn bài, tóm tắt, phân tích, nghị luận,... đầy đủ các bài văn mẫu lớp 11 hay nhất giúp ôn luyện thi THPT Quốc gia
SOẠN VĂN 11 TẬP 1
- Tuần 1 SGK Ngữ Văn lớp 11
- Tuần 2 SGK Ngữ Văn lớp 11
- Tuần 3 SGK Ngữ Văn lớp 11
- Tuần 4 SGK Ngữ Văn lớp 11
- Tuần 5 SGK Ngữ Văn lớp 11
- Tuần 6 SGK Ngữ Văn lớp 11
- Tuần 7 SGK Ngữ Văn lớp 11
- Tuần 8 SGK Ngữ Văn lớp 11
- Tuần 9 SGK Ngữ Văn lớp 11
- Tuần 10 SGK Ngữ Văn lớp 11
- Tuần 11 SGK Ngữ Văn lớp 11
- Tuần 12 SGK Ngữ Văn lớp 11
- Tuần 13 SGK Ngữ Văn lớp 11
- Tuần 14 SGK Ngữ Văn lớp 11
- Tuần 15 SGK Ngữ Văn lớp 11
- Tuần 16 SGK Ngữ Văn lớp 11
- Tuần 17 SGK Ngữ Văn lớp 11
- Tuần 18 SGK Ngữ Văn lớp 11
SOẠN VĂN VĂN 11 TẬP 2
- Tuần 19 SGK Ngữ Văn lớp 11
- Tuần 20 SGK Ngữ Văn lớp 11
- Tuần 21 SGK Ngữ Văn lớp 11
- Tuần 22 SGK Ngữ Văn lớp 11
- Tuần 23 SGK Ngữ Văn lớp 11
- Tuần 24 SGK Ngữ Văn lớp 11
- Tuần 25 SGK Ngữ Văn lớp 11
- Tuần 26 SGK Ngữ Văn lớp 11
- Tuần 27 SGK Ngữ Văn lớp 11
- Tuần 28 SGK Ngữ Văn lớp 11
- Tuần 29 SGK Ngữ Văn lớp 11
- Tuần 30 SGK Ngữ Văn lớp 11
- Tuần 31 SGK Ngữ Văn lớp 11
- Tuần 32 SGK Ngữ Văn lớp 11
- Tuần 33 SGK Ngữ Văn lớp 11
- Tuần 34 SGK Ngữ Văn lớp 11
- Tuần 35 SGK Ngữ Văn lớp 11
Một số tác giả, tác phẩm văn học tham khảo - Ngữ văn 11
- Nam triều công nghiệp diễn chí - Nguyễn Khoa Chiêm
- Bài ca lưu biệt - Huỳnh Thúc Kháng
- Gánh nước đêm - Trần Tuấn Khải
- Tống biệt hành - Thâm Tâm
- Tiếng địch sông Ô - Phạm Huy Thông
- Góc chiếu giữa đình - Ngô Tất Tố
- Ngục Kông Tum - Lê Văn Hiến
- Mưu trí của Chiêu Vũ - Nguyễn Khoa Chiêm
Tuần 1 SGK Ngữ Văn lớp 11
- Vào phủ chúa Trịnh - Lê Hữu Trác
- Từ ngôn ngữ chung đến lời nói cá nhân
- Viết bài làm văn số 1: Nghị luận xã hội - Ngữ văn 11
- Đọc thêm: Thượng kinh kí sự - Lê Hữu Trác
- Đọc thêm: Đặng Dịch trai ngôn hành lục - Đặng Huy Trứ
Tuần 2 SGK Ngữ Văn lớp 11
- Tự Tình - Hồ Xuân Hương
- Câu cá mùa thu - Nguyễn Khuyến
- Đọc thêm: Nguyễn Khuyến
- Phân tích đề, lập dàn ý bài văn nghị luận
- Thao tác lập luận phân tích
Tuần 3 SGK Ngữ Văn lớp 11
- Thương vợ - Trần Tế Xương
- Đọc thêm: Khóc Dương Khuê - Nguyễn Khuyến
- Đọc thêm: Vịnh khoa thi Hương - Tế Xương
- Đọc thêm: Trần Tế Xương (Tú Xương)
- Từ ngôn ngữ chung đến lời nói cá nhân (tiếp theo)
Tuần 4 SGK Ngữ Văn lớp 11
- Bài ca ngắn đi trên bãi cát - Cao Bá Quát
- Đọc thêm: Cao Bá Quát
- Bài ca ngất ngưởng - Nguyễn Công Trứ
- Luyện tập thao tác lập luận phân tích
Tuần 5 SGK Ngữ Văn lớp 11
- Viết bài làm văn số 2: Nghị luận văn học
- Lẽ ghét thương - Nguyễn Đình Chiểu
- Chạy giặc - Nguyễn Đình Chiểu
- Đọc thêm: Bài ca phong cảnh Hương Sơn (Hương Sơn phong cảnh ca) - Chu Mạnh Trinh
Tuần 6 SGK Ngữ Văn lớp 11
- Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - Nguyễn Đình Chiểu
- Đọc thêm: Nguyễn Đình Chiểu
- Thực hành về thành ngữ, điển cố
Tuần 7 SGK Ngữ Văn lớp 11
Tuần 8 SGK Ngữ Văn lớp 11
Tuần 9 SGK Ngữ Văn lớp 11
- Khái quát văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945
- Viết bài làm văn số 3: Nghị luận văn học (Ngữ văn 11)
Tuần 10 SGK Ngữ Văn lớp 11
Tuần 11 SGK Ngữ Văn lớp 11
- Chữ người tử tù - Nguyễn Tuân
- Luyện tập thao tác lập luận so sánh
- Luyện tập vận dụng kết hợp thao tác lập luận phân tích và so sánh
Tuần 12 SGK Ngữ Văn lớp 11
- Hạnh phúc của một tang gia - Vũ Trọng Phụng
- Đọc thêm: Số đỏ - Vũ Trọng Phụng
- Phong cách ngôn ngữ báo chí
Tuần 13 SGK Ngữ Văn lớp 11
- Chí Phèo - Phần 1 - Tác giả
- Một số thể loại văn học: Thơ, truyện
- Phong cách ngôn ngữ báo chí (tiếp theo)
Tuần 14 SGK Ngữ Văn lớp 11
- Chí Phèo - Phần 2 - Tác phẩm
- Đọc thêm: Đời Thừa - Nam Cao
- Thực hành về lựa chọn trật tự các bộ phận trong câu
- Bản tin
Tuần 15 SGK Ngữ Văn lớp 11
- Đọc thêm: Cha con nghĩa nặng - Hồ Biểu chánh
- Đọc thêm: Vi Hành - Nguyễn Ái Quốc
- Đọc thêm: Tinh thần thể dục - Nguyễn Công Hoan
- Luyện tập viết bản tin
- Phỏng vấn và trả lời phỏng vấn
Tuần 16 SGK Ngữ Văn lớp 11
- Vĩnh biệt cửu trùng đài - Nguyễn Huy Tưởng
- Đọc thêm: Vở kịch Vũ Như Tô - Nguyễn Huy Tưởng
- Thực hành về sử dụng một số kiểu câu trong văn bản
Tuần 17 SGK Ngữ Văn lớp 11
- Tình yêu và thù hận - Sếch-xpia
- Đọc thêm: Rô-mê-ô và Giu-li-ét - Sếch-xpia.
- Đọc thêm: Âm mưu và ái tình - Sile
- Đọc thêm: Những cuộc phiêu lưu - Tôm Xoyơ
- Ôn tập phần văn học
Tuần 18 SGK Ngữ Văn lớp 11
Tuần 19 SGK Ngữ Văn lớp 11
- Lưu biệt khi xuất dương - Phan Bội Châu
- Đọc thêm: Phan Bội Châu
- Nghĩa của câu
- Viết bài làm văn số 5: Nghị luận văn học - Ngữ văn 11
Tuần 20 SGK Ngữ Văn lớp 11
Tuần 21 SGK Ngữ Văn lớp 11
Tuần 22 SGK Ngữ Văn lớp 11
Tuần 23 SGK Ngữ Văn lớp 11
Tuần 24 SGK Ngữ Văn lớp 11
- Từ ấy - Tố Hữu
- Đọc thêm: Lai Tân - Hồ Chí Minh
- Đọc thêm: Nhớ đồng - Tố Hữu
- Đọc thêm: Tố Hữu
- Đọc thêm: Tương Tư - Nguyễn Bính
- Đọc thêm: Chiều xuân - Anh Thơ
- Tiểu sử tóm tắt
Tuần 25 SGK Ngữ Văn lớp 11
Tuần 26 SGK Ngữ Văn lớp 11
- Tôi yêu em - Puskin
- Bài thơ số 28 - Ta-go
- Đọc thêm: Người làm vườn - Ta-go
- Luyện tập viết tiểu sử tóm tắt
Tuần 27 SGK Ngữ Văn lớp 11
Tuần 28 SGK Ngữ Văn lớp 11
- Người cầm quyền khôi phục uy quyền - Vich to - Huy Gô
- Đọc thêm: Đêm đại dương - Vích to - Huy Gô
- Đọc thêm: Chiến tranh và hòa bình - L. Tônxtôi.
- Luyện tập thao tác lập luận bình luận
Tuần 29 SGK Ngữ Văn lớp 11
- Về luân lí xã hội ở nước ta - Phan Châu Trinh
- Đọc thêm: Luận về một chính sách khai hóa - Phan Châu Trinh
- Tiếng mẹ đẻ - Nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức - Nguyễn An Ninh
Tuần 30 SGK Ngữ Văn lớp 11
Tuần 31 SGK Ngữ Văn lớp 11
- Một thời đại trong thi ca - Hoài Thanh
- Đọc thêm: Văn học khái luận - Đặng Thai Mai
- Phong cách ngôn ngữ chính luận (tiếp theo)
Tuần 32 SGK Ngữ Văn lớp 11
- Một số thể loại văn học: Kịch, Nghị luận
- Luyện tập vận dụng kết hợp các thao tác lập luận - Ngữ văn 11
Tuần 33 SGK Ngữ Văn lớp 11
Tuần 34 SGK Ngữ Văn lớp 11
- Ôn tập phần Tiếng Việt - Ngữ văn 11 tập 2
- Luyện tập tóm tắt văn bản nghị luận
- Ôn tập phần làm văn - Ngữ văn 11
Đọc thêm: Nguyễn Khuyến
- Tiến sĩ giấy - Nguyễn Khuyến
- Thu ẩm - Nguyễn Khuyến
- Cuốc kêu cảm hứng - Nguyễn Khuyến
- Chợ đồng - Nguyễn Khuyến
Đọc thêm: Trần Tế Xương (Tú Xương)
Đọc thêm: Cao Bá Quát
Đọc thêm: Nguyễn Đình Chiểu
Đọc thêm: Phan Bội Châu
Đọc thêm: Xuân Diệu
Đọc thêm: Hồ Chí Minh
- Nhật kí trong tù - Hồ Chí Minh
- Tảo giải ( Giải đi sớm) - Hồ Chí Minh
- Tân xuất ngục, học đăng sơn (Mới ra tù, tập leo núi) - Hồ Chí Minh
Đọc thêm: Tố Hữu
Đọc thêm: Tương Tư - Nguyễn Bính
Xem Thêm
- Tóm tắt, bố cục, nội dung chính các tác phẩm SGK Văn 11 - Tập 1
- Tóm tắt, bố cục, nội dung chính các tác phẩm SGK Văn 11 - Tập 2
- Kiểm tra tổng hợp cuối học kì I
- Tải 30 đề kiểm tra giữa học kì 1 Ngữ Văn 11
- Tải 30 đề ôn tập học kì 1 Ngữ Văn 11
- Tải 30 đề thi học kì 1 của các trường môn Ngữ Văn 11
- Tải 30 đề kiểm tra giữa học kì 2 Ngữ Văn 11
- Tải 30 đề ôn tập học kì 2 Ngữ Văn 11
- Tải 30 đề kiểm tra học kì 2 Ngữ Văn 11 của các trường
- Kiểm tra tổng hợp cuối năm - Ngữ văn 11
Lớp 11 | Các môn học Lớp 11 | Giải bài tập, đề kiểm tra, đề thi Lớp 11 chọn lọc
Danh sách các môn học Lớp 11 được biên soạn theo sách giáo khoa mới của bộ giáo dục đào tạo. Kèm theo lời giải sách bài tập, sách giáo khoa, đề kiểm tra 15 phút, 45 phút (1 tiết), đề thi học kì 1 và học kì 2 năm học 2025 ngắn gọn, chi tiết dễ hiểu.
Toán Học
Vật Lý
Hóa Học
Ngữ Văn
- Soạn văn 11
- SBT Ngữ văn lớp 11
- Văn mẫu 11
- Soạn văn 11 chi tiết
- Soạn văn ngắn gọn lớp 11
- Soạn văn 11 siêu ngắn
Sinh Học
GDCD
Tin Học
Tiếng Anh
Công Nghệ
Lịch Sử & Địa Lý
- Tập bản đồ Địa lí lớp 11
- SBT Địa lí lớp 11
- SGK Địa lí lớp 11
- Tập bản đồ Lịch sử lớp 11
- SBT Lịch sử lớp 11
- SGK Lịch sử lớp 11