Phân tích Khóc Dương Khuê để cho thấy đây là khoảnh khắc tình bạn quân tử của Nguyễn Khuyến.
Khóc Dương Khuê là bài thơ hay nhất, cảm động nhất nói về một tình bạn đẹp, thắm thiết, thủy chung của 2 nhà nho, 2 nhà thơ một trăm năm về trước. Nguyễn Khuyến khóc bạn cũng như đang tự khóc mình.
Tình bạn được xếp hạng thứ năm trên thang giá trị Ngũ luân”. Không tình bạn nhân loại khó phát triển bình thường được. Tình bạn quân tử tập hợp chứ không hề hùa. Không đòi hỏi kết chặt như tình vợ chồng, bạn đời mà chấp nhận sự đứt nối, vơi đầy qua năm tháng. Tính bất nhất ấy thường dễ gây tan vỡ nhưng cũng có khi làm tình hạn đậm đà thêm ra: Quy luật tâm lí ấy cũng tương đương quy luật vật lí: Chỗ nối lại thường bền chắc hơn chỗ chỗ chưa đứt, số đo giữa vơi với đầy luôn lớn hơn giữa đầy với... chưa vơi! Khóc Dương Khuê của Nguyễn Khuyến ra đời trong trường hợp như thế, và do đó đạt độ đậm đà tha thiết hiếm có. Mối kết giao giữa hai người từng bị sờn đi, vơi đi một thời gian dài, nếu Nguyễn Khuyến không giữ đạo “thẳng thắn và tha thứ” của người quân tử, hẳn tình bạn giữa hai người khó lòng hàn gắn và Khóc Dương Khuê khó phô hết chân tình.
Họ là bạn đồng niên (cùng đỗ khoa thi Hương 1864). Với người quân tử, bạn đồng niên là “chuẩn” nhất, bởi phương châm của họ là “không kết bạn kẽ không bằng mình, thậm chí còn cầu toàn một chiều đến vô nghiệm, kết bạn phải, hơn mình, như mình thì không bằng không kết. Nói tắt một lời thì trong kết bạn, quân tử nặng lí trí hơn tình cảm, nhưng chính nhờ vậy mà vẫn “hòa hợp dù không đồng lòng. Tình trạng ấy thực đã xảy ra giữa giao tình Nguyễn Khuyến và Dương Khuê.
Khi kinh thành thất thủ (1883), Nguyễn Khuyến nhất quyết lui về ẩn dật cho đúng đạo “lúc đạt thì làm tốt cho cả thiên hạ, lúc cùng thì làm tốt cho riêng mình. Trái lại, Dương Khuê giữ đạo quân tử theo cách khác: "quân tử làm quan là làm điều nghĩa” “ mà thời điểm ấy mới cần đến điều nghĩa biết bao! Vả chăng Á thánh đã dạy "Lúc thường giữ cho đúng lề lối, lúc biến linh động theo tình hình. Thế nên Dương không lui về như Nguyễn mà nấn ná thêm sáu đời vua đầy rối ren, không cơn biến nào sánh kịp. Rồi khi Nguyễn phải “dằn tâm” làm “Ông phỗng đá” để “giữ thân” trong lớp vô gia sư bất đắc dĩ ở dinh Kinh lược Bắc Kì thì Dương đường đường là quan Tham Tá của Nha Kinh lược ấy (ông Tham tá nọ hẳn kha mẫn cán nên sau đó mới thăng Tổng đốc Nam Định - Nam Bình rồi về hưu với hàm Binh bộ Thượng thư)1"'.
Ai cũng biết rằng đối với phe hợp tác (Lê Hoan, Hoàng Cao Khải, Nguyễn Hữu Độ v.v...) Nguyễn Khuyến thường có lời lẽ ác cảm (cả khi họ đã qua đời). Tuy nhiên thánh nhân cũng dạy; “Nước quá trong không cá – xét nét quá không bạn” vì thế Nguyễn Khuyến đã châm chước cho Dương Khuê những khoảnh khắc tình bạn quân tử mà một trong những khoảnh khắc ấy đạt đến cao trào là 38 câu Khóc Dương Khuê.
Nỗi đau mất mát của ông bật lên thống thiết.
Bác Dương thôi đã thói rồi,
Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta (câu 1-2)
Tiếng kêu thảng thốt ấy thật là đầy ắp chân tình. Ông đã quên mình để xót xa tột cùng cho số phận bạn. Người đọc không thể không nhận ra nỗi niềm ấy. Thế nhưng ở bài chữ Hán (bộ phận thơ văn chủ yếu mỗi nhà nho) thì câu đầu là “Dĩ hĩ Dương đại niên” (Thôi rồi bác Dương ơi). Hai chữ “Dĩ hĩ” ở đầu câu ngụ ý tiếc vì “mất người tri kỉ“ hơn tiếc vì ‘‘người tri kỉ mất”. Nếu không trả lại bản gốc chữ Hán, ta dễ nhầm rất nhiều “ý ngầm” của ông Tam Nguyên ngay trong bản Nôm.
Tiếp theo là 12 câu nhắc những kỉ niệm chung của hai người:
Nhớ tử thuở... điển phần trước sau (câu 3-14)
Hai mươi năm (1864-1883) giao du tương đắc ấy lull lại bao kỉ niệm êm đềm! Chính những năm tháng đậm đà tình nghĩa ấy cộng với độ lượng quân tử nơi Nguyễn Khuyến mới đủ sức hàn gắn những sứt mẻ hiển nhiên khi mà Dương không đồng chí hướng với Nguyễn để giữ cái "Đạo chưa cùng” như hàng trăm nho sĩ khác, kẻ lui về ẩn dật, kẻ bỏ đi kháng chiến. Sự không bằng lòng của Nguyễn “bọc nhung" trong bốn câu:
Buổi dương cửu... thì thôi mới là (câu 15-18).
Lời thơ nghe tưởng như kể lễ thật tâm đắc tình họ “tuy hai mà một”, ai ngờ lại là lời chỉ trích không khoan nhượng, bấm đúng vào “yếu huyệt” của ke sĩ; đạo xuất xử của người quân tử. Lời trách nhẹ nhàng như có mà như không, tất cả chỉ găm chặt vào hai tiếng mới là! Nếu không rõ hành trạng của mỗi người, ta rất dễ “mắc lỡm” lối nói lấp lửng ấy; tuy cùng gặp buổi mạt vận của đạo Thánh (dương cửu) nhưng Nguyễn nhận ra để “biết thôi” còn Dương thì... chưa chịu biết! Nguyễn có bổn phận vạch ra điều ấy vì “trách cho tốt ra là cái đạo bạn bè. Tâm lí người đời thì “nghĩa tử là nghĩa tận” nhưng với người quân tử đấy mới là lúc người ta “tính sổ” nhau thật thẳng thắn vồ “tăm tiếng” lẫn về “tai tiếng” đế còn răn đời; Bởi vì "đậy áo quan công luận mới xác định” (có lẽ vì thế mà tập quán A Đông trọng ngày chết trơn trọng ngày sinh như Au Tây chăng?)
Lời thơ giải thích cho việc ngại đi lại là vì tuổi tác:
Muốn đi lại tuổi già thêm nhác
Trước ba năm gặp bác một lần (câu 19-20)
Trước ba năm, ấy là lúc Nguyễn 65, Dương 61. Liệu có đúng là cả hai đã “già”, đã “nhác đi lại” không? Đừng quên rằng với hàm trí sĩ một Tham tri như Nguyên, một Thượng thư như Dương, khái niệm “để lại” của họ chỉ giới hạn trong việc bước xuống thuyền hay ngồi lên cáng, vây quanh tiểu đồng, là học trò, là giai nhân, là... một trọng khoa bảng, danh vọng. Tôi nghĩ rằng hai Liếng mới ở câu 18 thực sự “chịu trách nhiệm” việc nhác “đi lại” của họ chứ không phải hai tiếng tuổi già ở câu 19, bằng cớ là ở bản chữ Hán, tuổi già hoàn toàn... ngoại phạm: Vãng lai bất xác đác”. (Qua lại không... thật đặng). Cách đặt câu đến lạ! Nếu dùng trong bài thi, chắc gì ông đỗ Tam Nguyên nhưng trong Khóc Dương Khuê thì đừng thế nghe mới xứng Tam Nguyên!
Có lẽ họ “nhắc đi lại” vì còn lí do khách quan nữa: Cả hai đều ngại gảy ghi ngờ cho dư luận lẫn thực dân, trừ lẩn gặp nhau hồi ba năm trước rất có khả năng là chuyện bất khả kháng: Đám tang vợ Nguyễn Khuyến. Và như vậy, câu “Trước ba năm gặp bác một lần” độ nhấn tất phải năm vào chữ một, đó là trường hợp "bất qui tắc” của “Qua lại không... thật đặng”.
Dù sao thì chuyện cũng thật buồn. Người bạn duy nhất còn lại 131, thật ra chỉ còn... phân nửa tình bằng hữu, chợt cũng qua đời nốt! Nguyễn Khuyên cảm thấy bơ vơ thật sự, bàng hoàng thật tình, ông như hóa bụa thêm lần nữa, cái chết vốn gợi lòng trắc ẩn, mà “lòng trắc ẩn lù đầu mối của đức nhân, đức Nhân đem lại là nền tảng của Ngũ thường người quân tử nào thảng thấm nhuần điều đó. Thế nên những ray rứt của ông (câu 19-28) rất “cận nhân tình”. Mất Dương Khuê, liệu trên đời có còn ai hiểu Nguyễn Khuyến? Quản Trọng khóc Bảo Thúc Khổng Minh khóc Chu Du cũng đều bởi lẽ ấy: “Quen biết đầy thiên hạ, hiếu lóng chẳng má người”. Việc Nguyễn Khuyến chẳng còn thiết gì rượu, thơ, giao (câu 29-34) là chuyện hoàn toàn dễ thông cảm. Bút mực Tam Nguyên nhân vậy mà có dịp cống hiến cho đời những vần thơ thấm tình bằng hữu.
Ở bốn câu kết, thái độ quân tử của Nguyễn Khuyến mới thật rạch ròi, sòng phẳng đến lạ lùng (theo góc nhìn của chúng ta).
Bác chẳng ở... hai hàng chứa chan (câu 35-38).
Ông ấy thế là chết thật rồi. Tôi chí nhớ (những kỉ niệm cũ) chứ không thương, không khóc. Y sờ sờ là thế nhưng ma lực của lời lẽ bản Nôm cứ lôi người đọc theo lòng tha thứ hơn là tỉnh táo nhận ra đạo thẳng thắn của tác giả. Cái tài ông Tam Nguyên thật đáng nể. Hãy thử phân tích một câu:
Tôi tuy thương lấy nhớ làm thương
Chữ tuy vốn phủ nhận nhất thời cái ý đi kề sau nó (ví dụ: tuy giàu nhưng bủn xỉn, tuy nghèo mà xài sang...). Vậy là ông “nhác khóc”, có chung lí do với “nhắc đi lại” Thẳng thắn đến thế thật quá đáng! Như suy lòng ta để phê phán lòng quân tử lại quá đáng hơn.
Vậy Khóc Dương Khuê đích thực là khoảnh khác tình bạn quân tử. Tình bạn ở họ vốn chuẩn mực, lí trí. Họ “nhanh nhạy trong công việc mà thận trọng trong lời cân nhắc giữa hai bản Hán và Nôm, ta thấy Khóc Dương Khuê là đem lòng tha thứ làm dịu đi dạo thẳng thắn quá căng ở nguyên tác. Ít ai chịu nhận ra ý đồ ấy vì người đời quen nghĩ rằng khóc là việc của tình cảm đơn thuần, quân tử, Tam nguyên gì cũng thế thôi, Nguyễn Khuyến vận dụng đúng đắn “đạo thẳng thắn và tha thứ“ của người quan tử vào cả hai bài nhưng điều thú vị là ông dành thẳng thắn cho nguyên tác, dành tha thứ cho bản Nôm. Rốt cuộc, quân tử vẫn đủ chất quân tử mà không làm chạnh lòng những “phi quân tử”. Không độc đáo được thế thì tài Tam nguyên còn kể làm gì!
Cũng nên biết thêm rằng trong nguyên tác. Nguyễn Khuyến xưng mành là dư chứ không xưng ngã. Xưng dư nghe lãnh đạm hơn, có thể phiếm xưng với cả người không quen biết (Kiểu Chu Hi mở đầu bài tựa Kinh Thi: “Hoặc hữu vấn ư dư viết”. Nếu ai đó hỏi Ta rằng...). Cũng trong nguyên tác, Nguyên gọi Dương vỏn vẹn hai lần bằng chữ Quân thích đáng, phải chăng (để nhắc quãng ngày thân thiết), còn bảy lần xưng hô tiếp theo (các câu 17, 23, 24, 25, 28, 35, 36) ông đều gọi bằng công là cách thường dùng ở ngôi thứ ba và chỉ dùng xưng hô trực tiếp khi cố tránh vẻ mặn mà. Trong bản Nôm, Nguyễn Khuyến dịch thành “bác” cho cả quân lẫn công, thế là ông “quân tử thêm phen nửa”, vẻ lạnh nhạt của ông đã che chắn khéo léo, cảnh “hòa nhi bất " căng ít bị nhận ra càng hay. Chính vì thế mà Khóc Dương Khuê càng thực thụ là khoảnh khắc tình bạn quân tử.
Cái kiểu “giận thì giận mà thương thì thương” ấy thật chẳng nhất quán, chăng đồng bộ chút nào, nhưng phải thế mới cân bằng giữa lí trí với tình cảm. Với chúng ta, điều ấy nghe rất chướng nhưng đạo quan tử thà đành phải thế. Chồ đặc sắc của Khóc Dương Khuê là nó làm vừa lòng cả hai phía cảm thụ: phía thích nghĩ răng Nguyễn nẫu cả lòng vì thương bạn lẫn phía nhận ra rằng người thực sự chẳng thương bạn mà chỉ không kìm nổi xúc động vì “chút nghĩa”. Chính khả nâng hai chiều ấy mới làm đậm dấu ấn Tam Nguyên. Cái lối người đọc vốn là thú sở trường của Nguyễn Khuyến (nhất là trong lĩnh lạc câu đối). Cũng đừng quên rằng đâỵ là bài thơ tự sự riêng tư chứ không phải nét để chia buồn, để truy điệu theo kiểu thù tạc đời thường. Rất có thể tang gia họ Dương vào thời điểm ấy chưa mấy ai biết đến.
Cuối cùng, nếu có ai đó nghĩ rằng “bảo là khóc nhưng cuối cùng nhác khóc thì thà đừng khóc”. Nghĩ như thế là dựa lập trường “phi quán tử” để phủ nhận tính cách quân tử của Nguyễn Khuyến cũng như trong cuộc đời và đánh mất đi của cõi đời một kiệt tác về Tình Bạn vậy.
Xemloigiai.com
- Đọc hiểu Khóc Dương Khuê
- Khóc Dương Khuê
- Phân tích bài Khóc Dương Khuê của Nguyễn Khuyến.
- Cảm nhận về bài thơ Khóc Dương Khuê của nhà thơ Nguyễn Khuyến.
Văn mẫu 11
Những bài văn phân tích, cảm nhận, dàn ý, bình giảng, bình luận hay nhất trong Văn mẫu lớp 11 gồm các bài văn thuộc dạng nghị luận xã hội và nghị luận văn học hay nhất trong tác phẩm văn học cùng các các vấn đề xã hội nhanh nhất, chính xác nhất
Nghị luận xã hội lớp 11
Tập làm văn lớp 11
Nghị luận văn học lớp 11
- Vào phủ chúa Trịnh - Lê Hữu Trác
- Tự tình - Hồ Xuân Hương
- Câu cá mùa thu - Nguyễn Khuyến
- Thương vợ - Trần Tế Xương
- Khóc Dương Khuê - Nguyễn Khuyến
- Vịnh khoa thi Hương
- Bài ca ngất ngưởng - Nguyễn Công Trứ
- Bài ca ngắn đi trên bãi cát - Cao Bá Quát
- Lẽ ghét thương - Nguyễn Đình Chiểu
- Chạy giặc - Nguyễn Đình Chiểu
- Bài ca phong cảnh Hương Sơn - Chu Mạnh Trinh
- Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - Nguyễn Đình Chiểu
- Chiếu cầu hiền (Cầu hiền chiếu) - Ngô Thì Nhậm
- Xin lập khoa luật - Nguyễn Trường Tộ
- Hai đứa trẻ - Thạch Lam
- Chữ người tử tù - Nguyễn Tuân
- Hạnh phúc của một tang gia - Vũ Trọng Phụng
- Chí Phèo - Nam Cao
- Cha con nghĩa nặng - Hồ Biểu Chánh
- Vi hành - Nguyễn Ái Quốc
- Vĩnh biệt cửu trùng đài - Vũ Như Tô
- Lưu biệt khi xuất dương - Phan Bội Châu
- Hầu Trời - Tản Đà
- Vội vàng - Xuân Diệu
- Tràng Giang - Huy Cận
- Đây thôn Vĩ Dạ - Hàn Mặc Tử
- Chiều tối - Hồ Chí Minh
- Từ ấy - Tố Hữu
- Lai Tân - Hồ Chí Minh
- Nhớ đồng - Tố Hữu
- Tương tư - Nguyễn Bính
- Tôi yêu em - A.X. Pu-skin
- Bài thơ số 28 - R. Ta-go
- Người trong bao - A.P. Sê-khốp
- Người cầm quyền khôi phục uy quyền - V.Huy-gô
- Về luân lí xã hội ở nước ta - Phan Châu Trinh
- Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác - Ăng-ghen
- Một thời đại trong thi ca - Hoài Thanh
- Đọc thêm: Trần Tế Xương (Tú Xương)
- Đọc thêm Số đỏ - Vũ Trọng Phụng
- Đời thừa - Nam Cao
- Rô-mê-ô và Giu-li-ét - Sếch - xpia
- Đọc thêm: Phan Bội Châu
- Thề non nước - Tản Đà
- Đây mùa thu tới - Xuân Diệu
- Thơ duyên - Xuân Diệu
- Tiếng hát đi đày - Tố Hữu
- Tâm tư trong tù - Tố Hữu
- Đám tang lão Gô - ri - ô - Ban-dắc
- Một số tác giả, tác phẩm tham khảo - Ngữ văn 11
Nghị luận về một tư tưởng đạo lí
Nghị luận về một hiện tượng đời sống
Vào phủ chúa Trịnh - Lê Hữu Trác
- Tổng hợp các bài văn nghị luận về tác phẩm Vào phủ chúa Trịnh
- Tổng hợp các cách mở bài, kết bài cho tác phẩm Vào phủ chúa Trịnh
Tự tình - Hồ Xuân Hương
- Tổng hợp các bài văn nghị luận về tác phẩm Tự tình (bài II)
- Tổng hợp các cách mở bài, kết bài cho tác phẩm Tự tình
Câu cá mùa thu - Nguyễn Khuyến
- Tổng hợp các bài văn nghị luận về tác phẩm Câu cá mùa thu
- Tổng hợp các cách mở bài, kết bài cho tác phẩm Câu cá mùa thu
Thương vợ - Trần Tế Xương
- Tổng hợp các bài văn nghị luận về tác phẩm Thương vợ
- Tổng hợp các cách mở bài, kết bài cho tác phẩm Thương vợ
Khóc Dương Khuê - Nguyễn Khuyến
- Tổng hợp các bài văn nghị luận về tác phẩm Khóc Dương Khuê
- Tổng hợp các cách mở bài, kết bài cho tác phẩm Khóc Dương Khuê
Vịnh khoa thi Hương
- Tổng hợp các bài văn nghị luận về tác phẩm Vịnh khoa thi Hương
- Tổng hợp các cách mở bài, kết bài cho tác phẩm Vịnh khoa thi Hương
Bài ca ngất ngưởng - Nguyễn Công Trứ
- Tổng hợp các bài văn nghị luận về tác phẩm Bài ca ngất ngưởng
- Tổng hợp các cách mở bài, kết bài cho tác phẩm Bài ca ngất ngưởng
Bài ca ngắn đi trên bãi cát - Cao Bá Quát
- Tổng hợp các bài văn nghị luận về tác phẩm Bài ca ngắn đi trên bãi cát
- Tổng hợp các cách mở bài, kết bài cho tác phẩm Bài ca ngắn đi trên bãi cát
Lẽ ghét thương - Nguyễn Đình Chiểu
- Tổng hợp các bài văn nghị luận về tác phẩm Lẽ ghét thương
- Tổng hợp các cách mở bài, kết bài cho tác phẩm Lẽ ghét thương
Chạy giặc - Nguyễn Đình Chiểu
- Tổng hợp các bài văn nghị luận về tác phẩm Chạy giặc
- Tổng hợp các cách mở bài, kết bài cho tác phẩm Chạy giặc
Bài ca phong cảnh Hương Sơn - Chu Mạnh Trinh
- Tổng hợp các bài văn nghị luận về tác phẩm Bài ca phong cảnh Hương Sơn
- Tổng hợp các cách mở bài, kết bài cho tác phẩm Bài ca phong cảnh Hương Sơn
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - Nguyễn Đình Chiểu
- Tổng hợp các bài văn nghị luận về tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
- Tổng hợp các cách mở bài, kết bài cho tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
Chiếu cầu hiền (Cầu hiền chiếu) - Ngô Thì Nhậm
Xin lập khoa luật - Nguyễn Trường Tộ
- Tổng hợp các bài văn nghị luận về tác phẩm Xin lập khoa luật
- Tổng hợp các cách mở bài, kết bài cho tác phẩm Xin lập khoa luật
Hai đứa trẻ - Thạch Lam
- Tổng hợp các bài văn nghị luận về tác phẩm Hai đứa trẻ
- Tổng hợp các cách mở bài, kết bài cho tác phẩm Hai đứa trẻ
Chữ người tử tù - Nguyễn Tuân
- Tổng hợp các bài văn nghị luận về tác phẩm Chữ người tử tù
- Tổng hợp các cách mở bài, kết bài cho tác phẩm Chữ người tử tù
Hạnh phúc của một tang gia - Vũ Trọng Phụng
- Tổng hợp các bài văn nghị luận về tác phẩm Hạnh phúc của một tang gia
- Tổng hợp các cách mở bài, kết bài cho tác phẩm Hạnh phúc của một tang gia
Chí Phèo - Nam Cao
- Tổng hợp các bài văn nghị luận về tác phẩm Chí Phèo
- Tổng hợp các cách mở bài, kết bài cho tác phẩm Chí Phèo
Cha con nghĩa nặng - Hồ Biểu Chánh
- Tổng hợp các bài văn nghị luận về tác phẩm Cha con nghĩa nặng
- Tổng hợp các cách mở bài, kết bài cho tác phẩm Cha con nghĩa nặng
Vi hành - Nguyễn Ái Quốc
- Tổng hợp các bài văn nghị luận về tác phẩm Vi hành
- Tổng hợp các cách mở bài, kết bài cho tác phẩm Vi hành
Vĩnh biệt cửu trùng đài - Vũ Như Tô
- Tổng hợp các bài văn nghị luận về tác phẩm Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài
- Tổng hợp các cách mở bài, kết bài cho tác phẩm Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài
Lưu biệt khi xuất dương - Phan Bội Châu
- Tổng hợp các bài văn nghị luận về tác phẩm Lưu biệt khi xuất dương
- Tổng hợp các cách mở bài, kết bài cho tác phẩm Lưu biệt khi xuất dương
Hầu Trời - Tản Đà
- Tổng hợp các bài văn nghị luận về tác phẩm Hầu trời
- Tổng hợp các cách mở bài, kết bài cho tác phẩm Hầu trời
Vội vàng - Xuân Diệu
- Tổng hợp các bài văn nghị luận về tác phẩm Vội vàng
- Tổng hợp các cách mở bài, kết bài cho tác phẩm Vội vàng
Tràng Giang - Huy Cận
- Tổng hợp các bài văn nghị luận về tác phẩm Tràng giang
- Tổng hợp các cách mở bài, kết bài cho tác phẩm Tràng giang
Đây thôn Vĩ Dạ - Hàn Mặc Tử
- Tổng hợp các bài văn nghị luận về tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ
- Tổng hợp các cách mở bài, kết bài cho tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ
Chiều tối - Hồ Chí Minh
- Tổng hợp các bài văn nghị luận về tác phẩm Chiều tối
- Tổng hợp các cách mở bài, kết bài cho tác phẩm Chiều tối
Từ ấy - Tố Hữu
- Tổng hợp các bài văn nghị luận về tác phẩm Từ ấy
- Tổng hợp các cách mở bài, kết bài cho tác phẩm Từ ấy
Lai Tân - Hồ Chí Minh
- Tổng hợp các bài văn nghị luận về tác phẩm Lai Tân
- Tổng hợp các cách mở bài, kết bài cho tác phẩm Lai Tân
Nhớ đồng - Tố Hữu
- Tổng hợp các bài văn nghị luận về tác phẩm Nhớ đồng
- Tổng hợp các cách mở bài, kết bài cho tác phẩm Nhớ đồng
Tương tư - Nguyễn Bính
- Tổng hợp các bài văn nghị luận về tác phẩm Tương tư
- Tổng hợp các cách mở bài, kết bài cho tác phẩm Tương tư
Tôi yêu em - A.X. Pu-skin
- Tổng hợp các bài văn nghị luận về tác phẩm Tôi yêu em
- Tổng hợp các cách mở bài, kết bài cho tác phẩm Tôi yêu em
Bài thơ số 28 - R. Ta-go
- Tổng hợp các bài văn nghị luận về tác phẩm Bài thơ số 28
- Tổng hợp các cách mở bài, kết bài cho tác phẩm Bài thơ số 28
Người trong bao - A.P. Sê-khốp
- Tổng hợp các bài văn nghị luận về tác phẩm Người trong bao
- Tổng hợp các cách mở bài, kết bài cho tác phẩm Người trong bao
Người cầm quyền khôi phục uy quyền - V.Huy-gô
- Tổng hợp các bài văn nghị luận về tác phẩm Người cầm quyền khôi phục uy quyền
- Tổng hợp các cách mở bài, kết bài cho tác phẩm Người cầm quyền khôi phục uy quyền
Về luân lí xã hội ở nước ta - Phan Châu Trinh
- Tổng hợp các bài văn nghị luận về tác phẩm Về luân lí xã hội ở nước ta
- Tổng hợp các cách mở bài, kết bài cho tác phẩm Về luân lí xã hội ở nước ta
Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác - Ăng-ghen
- Tổng hợp các bài văn nghị luận về tác phẩm Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác
- Tổng hợp các cách mở bài, kết bài cho tác phẩm Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác
Một thời đại trong thi ca - Hoài Thanh
- Tổng hợp các bài văn nghị luận về tác phẩm Một thời đại trong thi ca
- Tổng hợp các cách mở bài, kết bài cho tác phẩm Một thời đại trong thi ca
Đọc thêm: Trần Tế Xương (Tú Xương)
Đọc thêm Số đỏ - Vũ Trọng Phụng
- Tổng hợp các bài văn nghị luận về tác phẩm Số đỏ
- Tổng hợp các cách mở bài, kết bài cho tác phẩm Số đỏ
Đời thừa - Nam Cao
- Tổng hợp các bài văn nghị luận về tác phẩm Đời thừa
- Tổng hợp các cách mở bài, kết bài cho tác phẩm Đời thừa
Rô-mê-ô và Giu-li-ét - Sếch - xpia
- Tổng hợp các bài văn nghị luận về tác phẩm Rô-mê-ô và Giu-li-ét
- Tổng hợp các cách mở bài, kết bài cho tác phẩm Rô-mê-ô và Giu-li-ét
Đọc thêm: Phan Bội Châu
Thề non nước - Tản Đà
- Tổng hợp các bài văn nghị luận về tác phẩm Thề non nước
- Tổng hợp các cách mở bài, kết bài cho tác phẩm Thề non nước
Đây mùa thu tới - Xuân Diệu
- Tổng hợp các bài văn nghị luận về tác phẩm Đây mùa thu tới
- Tổng hợp các cách mở bài, kết bài cho tác phẩm Đây mùa thu tới
Thơ duyên - Xuân Diệu
- Tổng hợp các bài văn nghị luận về tác phẩm Thơ duyên
- Tổng hợp các cách mở bài, kết bài cho tác phẩm Thơ duyên
Tiếng hát đi đày - Tố Hữu
- Tổng hợp các bài văn nghị luận về tác phẩm Tiếng hát đi đày
- Tổng hợp các cách mở bài, kết bài cho tác phẩm Tiếng hát đi đày
Tâm tư trong tù - Tố Hữu
- Tổng hợp các bài văn nghị luận về tác phẩm Tâm tư trong tù
- Tổng hợp các cách mở bài, kết bài cho tác phẩm Tâm tư trong tù
Đám tang lão Gô - ri - ô - Ban-dắc
- Tổng hợp các bài văn nghị luận về tác phẩm Đám tang lão Gô-ri-ô
- Tổng hợp các cách mở bài, kết bài cho tác phẩm Đám tang lão Gô-ri-ô
Xem Thêm
Lớp 11 | Các môn học Lớp 11 | Giải bài tập, đề kiểm tra, đề thi Lớp 11 chọn lọc
Danh sách các môn học Lớp 11 được biên soạn theo sách giáo khoa mới của bộ giáo dục đào tạo. Kèm theo lời giải sách bài tập, sách giáo khoa, đề kiểm tra 15 phút, 45 phút (1 tiết), đề thi học kì 1 và học kì 2 năm học 2025 ngắn gọn, chi tiết dễ hiểu.
Toán Học
Vật Lý
Hóa Học
Ngữ Văn
- Soạn văn 11
- SBT Ngữ văn lớp 11
- Văn mẫu 11
- Soạn văn 11 chi tiết
- Soạn văn ngắn gọn lớp 11
- Soạn văn 11 siêu ngắn
Sinh Học
GDCD
Tin Học
Tiếng Anh
Công Nghệ
Lịch Sử & Địa Lý
- Tập bản đồ Địa lí lớp 11
- SBT Địa lí lớp 11
- SGK Địa lí lớp 11
- Tập bản đồ Lịch sử lớp 11
- SBT Lịch sử lớp 11
- SGK Lịch sử lớp 11